Viêm não Nhật Bản (Japanese Encephalitis – JE) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus viêm não Nhật Bản (Japanese Encephalitis Virus – JEV), thuộc chi Flavivirus, họ Flaviviridae gây ra. Virus này lây truyền chủ yếu qua muỗi Culex spp., đặc biệt là Culex tritaeniorhynchus. Heo – đặc biệt là heo nái và heo con đóng vai trò quan trọng trong chu trình truyền lây của JEV với vai trò là ký chủ khuếch đại chính. Virus có thể nhân lên với tải lượng cao trong máu heo nhiễm, từ đó muỗi hút máu và lan truyền virus sang các vật chủ khác, bao gồm cả người (Ricklin et al., 2016).
Con đường truyền lây chính của JEV trong tự nhiên là qua vector muỗi, đặc biệt phổ biến ở những khu vực có mật độ muỗi cao như đồng bằng, ao hồ, ruộng lúa nước – môi trường sinh sản lý tưởng của Culex spp. Ngoài ra, một số nghiên cứu gần đây cũng ghi nhận khả năng truyền lây không qua vector (vector-free transmission) qua đường tiếp xúc trực tiếp giữa các heo trong cùng chuồng, đặc biệt trong điều kiện chăn nuôi mật độ cao và vệ sinh kém. Tuy nhiên, vai trò dịch tễ học của đường truyền này vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu (Ricklin et al., 2016).
.png)
Về dịch tễ học, JEV lưu hành rộng rãi tại các quốc gia châu Á, bao gồm cả Việt Nam – nơi bệnh được xem là lưu hành đặc hữu quanh năm (CDC, 2025). Theo nghiên cứu của (Lee et al., 2019) tại 10 tỉnh thành Việt Nam, tỷ lệ huyết thanh dương tính với virus viêm não Nhật Bản (JEV) ở heo là 73,45%. Tại Việt Nam, việc nuôi heo gần khu dân cư, gần ao hồ, ruộng lúa và thiếu kiểm soát vector đã tạo điều kiện cho virus tồn tại và lây lan quanh năm, đặc biệt gia tăng vào mùa mưa, thời điểm mật độ muỗi phát triển mạnh. Ricklin et al. (2016) cũng nhấn mạnh rằng heo có thể mang virus JEV mà không biểu hiện triệu chứng lâm sàng rõ rệt, nhưng vẫn đủ khả năng truyền virus cho muỗi – điều này gây khó khăn trong công tác kiểm soát dịch tễ học.
.png)
Hậu quả của JEV đối với chăn nuôi heo là rất nghiêm trọng. Ở heo nái, nhiễm JEV có thể gây sẩy thai, thai chết lưu, thai gỗ, đẻ non hoặc đẻ ra heo con yếu, làm giảm tỷ lệ đậu thai và năng suất sinh sản. Ở heo con sơ sinh (đặc biệt từ 1 đến 2 tuần) tuổi bệnh có thể tiến triển thành viêm não cấp với các biểu hiện thần kinh như bơi chèo, run cơ, co giật, mất điều hòa vận động và tử vong nhanh. Heo đực giống bị nhiễm bệnh có thể bị viêm tinh hoàn phù nề hoặc sung huyết với tinh trùng bất thường (Park et al., 2022). Ngoài ra, tổn thất kinh tế gián tiếp như chi phí điều trị, chăm sóc, giảm tăng trọng, loại thải heo sinh sản cũng đáng kể. Đặc biệt, do heo là nguồn truyền bệnh chính cho muỗi – từ đó lây sang người, nên JEV còn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng.
.png)
• Tiêm phòng vaccine cho heo nái và heo hậu bị.
• Kiểm soát vector truyền bệnh bằng các biện pháp diệt muỗi, cải tạo môi trường xung quanh khu chăn nuôi.
• Cải thiện vệ sinh chuồng trại.
Việc áp dụng đồng bộ các biện pháp này là yếu tố then chốt nhằm cắt đứt chuỗi truyền lây virus, giảm thiểu thiệt hại trong chăn nuôi heo và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Công ty Sistar Vietnam
Tài liệu tham khảo:
1. Centers for Disease Control and Prevention. (2025, June 5). Areas at risk for Japanese encephalitis. U.S. Department of Health & Human Services. https://www.cdc.gov/japanese-encephalitis/data-maps/index.html
2. Lee, H. S., Thanh, T. L., Ly, N. K., Nguyen-Viet, H., Thakur, K. K., & Grace, D. (2019). Seroprevalence of leptospirosis and Japanese encephalitis in swine in ten provinces of Vietnam. PLOS ONE, 14(8), e0214701. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0214701
3. Park, S. L., Huang, Y.-J. S., & Vanlandingham, D. L. (2022). Re-Examining the Importance of Pigs in the Transmission of Japanese Encephalitis Virus. Pathogens, 11(5), 575. https://doi.org/10.3390/pathogens11050575
4. Ricklin, M. E., García-Nicolás, O., Brechbühl, D., Python, S., Zumkehr, B., Nougairede, A., Charrel, R. N., Posthaus, H., Oevermann, A., & Summerfield, A. (2016). Vector-free transmission and persistence of Japanese encephalitis virus in pigs. Nature Communications, 7(1). https://doi.org/10.1038/ncomms10832